Thứ Ba, 3 tháng 7, 2012

CON ĐƯỜNG THÀNH CÔNG


Bạn luôn ngưỡng mộ những người tài năng xuất chúng, bạn ngưỡng mộ những vĩ nhân đã làm nên những việc phi thường. Vậy bạn có bao giờ tự hỏi rằng bản thân mình cũng có những khả năng xuất chúng hoặc trở thành một người nào đó đặc biệt hơn không?

Ai trong chúng ta đều luôn tự hỏi: “ Tàinăng của mình là gì ?”. Với một số người, họ đã tự sớm khám phá ra tài năng của chính mình và phát triển thành công nhưng đa số thì phải bỏ cả đời để tìm kiếm. Để có được thành công bạn phải biết cách khơi nguồn năng lượng quý giá tiềm ẩn bên trong con người bạn. Đó cũng chính là lý do vì sao Edison lại là một nhà khoa học với 1.907 phát minh sáng chế mà không phải là một nhà văn? Bill Gates trở thành ông chủ của Tập đoàn Microsoft khổng lồ mà không phải là đầu bếp? hoặc Linh Nga là một nghệ sĩ múa được yêu thích mà không phải là một bác sĩ? Bất kỳ ai trong chúng ta đều luôn sở hữu một tài năng tiềm ẩn riêng, tài năng này sẽ là sức mạnh tuyệt vời cho phép bạn bắt đầu một cuộc sống hoàn toàn mới.
Có một điều là, không phải ai cũng có khả năng phát hiện ra được sức mạnh vĩ đại của bản thân để giúp mình thay đổi, vận dụng nó và phát triển thành công. Thậm chí nhiều người còn không biết rằng nó đang tồn tại trong não bộ của mình. Một khi bạn nhận ra được sức mạnh này và bắt đầu vận dụng nó, bạn có thể thay đổi được cả cuộc đời mình.

Theodore Roosevelt -  Tổng thống thứ 26 của Hoa Kỳ đã nói: “Tất cả những gì chúng ta cần đều nằm trong khả năng của chúng ta” và thành công cũng vậy.Thành công đến từ chính bên trong chúng ta. Một khi bạn không phát hiện được tài năng của chính bản thân mình, vô tình bạn đã quăng đi một công cụ dẫn đường cho bạn. Sinh ra trong một thế giới không ngừng chuyển động và phát triển thì việc tìm ra tài năng của bản thân quan trọng như một tấm bản đồ hướng dẫn cho bạn con đường đi đến thành công. Nếu bạn biết được tài năng của mình, bạn có thể đầu tư để phát triển đúng hướng và gặt hái thành công một cách nhanh nhất.
Vì thế, nếu bạn thực sự muốn thành công trong cuộc sống, đầu tiên, bạn phải hiểu mình là ai, mình có tài năng gì. Cũng giống như nếu biết mình là một chú lạc đà, có bướu để trữ nước, có chân dài để đi bộ, có lông mi để che chắn bão cát... thì ắt hẳn chú sẽ chọn sống trên sa mạc hơn là thích thú an phận trong sở thú. Nếu biết mình là một chú chim với đôi cánh khỏe mạnh cùng thân hình nhẹ nhàng, ắt hẳn bạn sẽ muốn sống tự do trên bầu trời thay vì khoái chí vì mình đã tìm được một chiếc lồng thật đẹp. Hiểu được giá trị bản thân, tiềm năng của bản thân mình thì bạn sẽ đạt được nhiều thành công hơn những gì bạn nghĩ.
Ai cũng biết rằng: Để đi từ điểm A đến điểm B thì con đường ngắn nhất sẽ là con đường thẳng, nhưng không phải ai cũng có thể nhìn thấy được con đường này. Dĩ nhiên, Bạn có thể chọn con đường thẳng, đường vòng hoặc đường xéo… để đi, cuối cùng rồi bạn cũng sẽ đến đích. Tuy nhiên, Bạn sẽ phải mất bao nhiêu công sức, tiền bạc và thời gian: 5 năm, 10 năm hay cả cuộc đời để biết được tài năng và tìm được con đường thành công ngắn nhất cho chính bản thân mình.


Hãy để sinh trắc học dấu vân tay giúp bạn phát hiện ra tài năng thiên bẩm của mình. Sinh trắc học đã giúp nhiều người thành công bằng cách tư vấn các lĩnh vực tương ứng với khả năng bẩm sinh của từng người.
Dựa trên những thành tựu nghiên cứu về tiềm năng con người, các nhà khoa học trên thế giới đã đúc kết công trình nghiên cứu về ngành khoa học dấu vân tay (Dermatoglyphics) có liên quan đến sự phát triển và hình thành não bộ con người. Kiểm chứng cho thấy sinh trắc học dấu vân tay là cách duy nhất để giải các mật mã của não bộ.
Năm 1926 Tiến sĩ Harold Cummins được xem là cha đẻ của ngành nghiên cứu khoa học dấu vân tay đưa ra lý luận chỉ số cường độ vân tay, vị trí hình dạng vân tay ở những ngón tay khác nhau có liên quan đến tiềm năng và trí tuệ của con người. Ông nghiên cứu ra rằng: Dấu vân tay được hình thành đồng thời với sự hoàn thiện của cấu trúc não bộ. Dấu vân tay được khởi tạo khi trẻ được 13 đến 19 tuần tuổi.Vào giai đoạn trước đó,thai nhi không có dấu vân tay đồng thời não bộ cũng chỉ mới trong giai đoạn hình thành. Khi thai nhi được 19 tuần tuổi cũng là lúc các vùng chính của não hình thành bao gồm cả vỏ đại não.

 Trước Harold Cummins còn có tiến sĩ Francis Galton, Henry Faulds, Noel Jaquin, Beryl Hutchinson, Charlotte Woff  là những nhà khoa học đi tiên phong trong lĩnh vực sinh trắc học Dấu vân tay. Họ đã tìm ra được vai trò của dấu vân tay trong lĩnh vực di truyền, số lượng vân tay trên ngón tay liên quan đến tiềm năng về trí tuệ con người, chẩn đoán vân tay có thể đánh giá tình hình sức khỏe và tình cảm của con người, mối quan hệ mật thiết giữa vân tay và tiềm thức con người, ngón cái và ngón trỏ có thể cho biết năng lực tự ý thức và ý chí của mỗi người.

Khám phá bản thân mình qua dấu vân tay nhằm đưa ra định hướng nghề nghiệp, tư vấn giáo dục, tạo nền tảng thành công cho tương lai với sự hỗ trợ và tư vấn của các chuyên gia hàng đầu về Sinh trắc Du vân tay.


PHÁT TRIỂN TIỀM NĂNG TRÍ TUỆ CHO TRẺ



Các công trình nghiên cứu trên thế giới về giáo dục cho thấy : Sự phát triển của trẻ trong những năm đầu đời quyết định tương lai của cả cuộc đời trẻ.Việc phát triển và giáo dục cho trẻ ngay từ sớm cung cấp cho trẻ cơ hội để khai mở và phát triển hết các khả năng và tài năng của trẻ, bởi bộ não trẻ ngay từ sơ sinh đã có những tiềm năng đáng kinh ngạc.

Với mong muốn tạo nền tảng tốt cho giáo dục, các nhà nghiên cứu trên thế giới không ngừng nghiên cứu về tiềm năng trí tuệ của trẻ để định hướng cho việc giáo dục. Trong đó, vân tay học là một ngành khoa học đã được phát hiện sớm và ứng dụng ở nhiều nước trong việc định hướng giáo dục.

Việc sử dụng Sinh trắc học dấu vân tay đã được các nước trên thế giới sử dụng rộng rãi. Năm 2004, Trung tâm IBMBS - Trung tâm Sinh trắc học Xã hội và Hành vi ứng xử quốc tế đã xuất bản hơn 7000 luận án về Sinh trắc vân tay. Ngày nay, Mỹ, Nhật Bản, Trung Quốc, Đài Loan, Singapore, Malaysia...đã áp dụng Sinh trắc vân tay đến các lĩnh vực giáo dục bằng cách xác định các phong cách tiếp thu việc học tập khác nhau, khám phá tài năng thiên bẩm, tính cách, điểm mạnh, điểm yếu, Thuyết đa thông minh, chỉ số IQ, EQ, CQ, AQ… của từng cá nhân với mục đích cho việc định hướng giáo dục, phát triển cá nhân và sự nghiệp.



Tiềm năng não bộ của trẻ sẽ giảm dần theo quy luật “Sử dụng nó hay đánh mất nó”, nghĩa là nếu phát hiện được sớm tài năng của trẻ có thể thúc đẩy chức năng não bộ của trẻ phát triển một cách tối ưu và nâng cao chất lượng giảng dạy trong giáo dục.

PGS TS.Lê Sơn – Giám Đốc Trung Tâm Hội Ứng Dụng Khoa Học Tâm Lý Giáo Dục Phía Nam cho biết : Mỗi đứa trẻ đều có một năng khiếu khác nhau, nếu được kích thích phát triển một cách toàn diện từ những năm đầu đời trẻ có thể phát huy hết tiềm năng của mình. Việc sử dụng phương pháp Sinh trắc vân tay có thể biết được năng lực của trẻ ngay từ khi còn nhỏ, đây quả là một tín hiệu tốt cho ngành giáo dục. 
                                                  
 

Sinh trắc vân tay là cách để giải các mật mã của não bộ, bởi dấu vân tay vĩnh viễn sẽ không thay đổi cho dù có bị bỏng, đứt tay đi chăng nữa thì theo thời gian nó cũng sẽ tự tái tạo lại y như cũ. Vì thế, chỉ cần phân tích vân tay một lần trong đời, cha mẹ có thể định hướng lâu dài cho trẻ.
Sinh trắc vân tay hiện đang là công cụ khoa học hỗ trợ tối ưu cho việc định hướng giáo dục và trong việc khám phá tài năng của trẻ.



Công ty TNHH DV TV TIỀM NĂNG VIỆT
74/1/1 Bạch Đằng, P2, Q. Tân Bình
Tel : (08) 3848 7371


KHÁM PHÁ TÀI NĂNG TIỂM ẨN CỦA TRẺ!



Cha mẹ là người sinh thành và dưỡng dục con cái nên là người hiểu về con em mình hơn ai hết. Tuy nhiên, cần bao nhiêu thời gian để có thể phát hiện được tố chất bẩm sinh của trẻ? Ngay hôm nay, 10 năm sau hay lâu hơn nữa?

Xã hội phát triển, nhu cầu được khám phá bản thân ngày càng cao. Việc biết rõ đúng tính cách và tiềm năng trí tuệ nổi trội của trẻ quan trọng như một tấm bản đồ hướng dẫn cho trẻ con đường đi đến thành công. Ngày nay, thông qua phương tiện thông tin đại chúng, các bậc cha mẹ rất dễ dàng tìm được các phương pháp để nuôi và dạy con cái. Tuy nhiên, để tìm ra được một phương pháp thiết thực và khả thi thì không dễ dàng như bao người vẫn nghĩ. Đó cũng chính là lý do mà các bậc phụ huynh thường ép trẻ học nhanh, học nhiều để trở thành “siêu thần đồng” bằng cách cho trẻ học chính khóa, học thêm, học anh văn, học đàn, vi tính… Thậm chí khuynh hướng này đã trở thành sự lựa chọn của rất nhiều bậc phụ huynh.
Với ý nghĩ cha mẹ luôn dành những gì tốt đẹp nhất cho trẻ. Các bậc cha mẹ đã không ngần ngại khi áp đặt con mình vào suy nghĩ riêng của mình. Chị Bui, Nha Trang tâm sự: “Con trai em mới vài tháng tuổi. Em muốn hướng cho cháu say mê những môn khoa học tự nhiên”.
Việc luôn dành những điều tốt đẹp nhất cho trẻ không đồng nghĩa với việc trẻ phải học theo niềm đam mê và định hướng của cha mẹ. Các nhà nghiên cứu đã chỉ ra rằng: ban đầu trẻ có thể học tốt những kiến thức người lớn định hướng theo. Thế nhưng một thời gian sau, trẻ có thể sẽ có biểu hiện tuột dốc trong học tập. Bởi lẽ, nếu trẻ không có đam mê thì trẻ không cố gắng phấn đấu và cũng không thể nào tiếp thu tốt được môn học đó. Sau một thời gian, trẻ không còn theo kịp chương trình học nữa, giảm sự hứng thú với việc học. Do vậy, thật là lãng phí thời gian, tiền bạc và công sức cho các bậc phụ huynh cũng như khá là không công bằng cho trẻ. Mọi sự định hướng nghề nghiệp cần dựa khả năng tiềm ẩn của trẻ, không nên xuất phát từ những ý muốn chủ quan của mình để áp đặt một định hướng nào đó mà không phù hợp với trẻ.
Cha mẹ nào cũng có những tâm tư tình cảm riêng dành cho con cái. Tuy nhiên, cách tiếp cận và băn khoăn của mỗi gia đình thì lại khác. Chị Nguyễn Thị Châm, 28 tuổi, TP.HCM cũng chia sẻ: “Con tôi 11 tuổi, rất nghịch và mê chơi điện tử, luôn bị giáo viên “để ý” tuy học lực khá. Gần đây cháu học sút dần. Về nhà nếu muốn cháu học thì tôi phải ngồi kèm sát. Làm sao để cháu bớt nghịch và mải chơi để tập trung vào học nhiều hơn?”.
Thật ra, trường hợp của con chị Châm khá phổ biến. Mỗi trẻ có những cách tiếp thu việc học riêng. Có những trẻ học bằng mắt, bằng tai và bằng vận động cơ thể. Đối với những trẻ học bằng vận động có xu hướng bồn chồn và cần phải di chuyển. Các bậc cha mẹ nếu hiểu được con có thể kết hợp các hình thức vận động với việc học của trẻ để nâng cao khả năng tiếp thu việc học và tăng cường khả năng vận động của trẻ.
Mỗi trẻ hình thành mỗi tính cách khác nhau, có những trẻ thì năng động, hoạt bát, học tập thông qua vận động; nhưng cũng có những trẻ ít nói, lập dị, chậm chạp chỉ học bằng trực quan, thính giác tuy nhiên không vì thế mà vội đánh giá tài năng, tính cách của từng trẻ.

Việc khám phá ra tài năng để đầu tư và định hướng đúng cho trẻ trở thành một nhu cầu cấp bách trong xã hội phát triển đa dạng như hiện nay.
Để giúp trẻ tìm ra con đường khám phá bản thân nhanh nhất, chính xác và toàn diện nhất, các nhà khoa học và tâm lý học trên thế giới đã dày công nghiên cứu và đưa ra một công cụ thiết thực hỗ trợ tối ưu cho các bậc cha mẹ, đó là ngành khoa học Sinh trắc học dấu vân tay.
Khoa học đã chứng minh được rằng Sinh trắc học dấu vân tay có thể giúp các bậc cha mẹ biết được tính cách, tài năng thiên bẩm, các chỉ số thông minh, cảm xúc, suy nghĩ, điểm mạnh, điểm yếu trong tố chất bẩm sinh của trẻ, giúp trẻ cân bằng hệ não bộ bằng phương pháp giáo dục hỗ trợ tác động từ bên ngoài.
Năm 1926 Tiến sĩ Harold Cummins được xem là cha đẻ của ngành nghiên cứu khoa học dấu vân tay đưa ra lý luận chỉ số cường độ vân tay, vị trí hình dạng vân tay ở những ngón tay khác nhau có liên quan đến tiềm năng và trí tuệ của con người. Ông nghiên cứu ra rằng dấu vân tay được hình thành đồng thời với sự hoàn thiện của cấu trúc não bộ. Dấu vân tay được khởi tạo khi trẻ được 13 đến 19 tuần tuổi. Vào giai đoạn trước đó, thai nhi không có dấu vân tay đồng thời não bộ cũng chỉ trong giai đoạn hình thành. Khi thai nhi được 19 tuần tuổi cũng là lúc các vùng chính của não hình thành bao gồm cả vỏ đại não.
Trước Harold Cummins còn có tiến sĩ Francis Galton, Henry Faulds, Noel Jaquin, Beryl Hutchinson, Charlotte Woff là những nhà khoa học đi tiên phong trong lĩnh vực sinh trắc học dấu vân tay. Họ đã tìm ra được vai trò của dấu vân tay trong lĩnh vực di truyền, số lượng vân tay trên ngón tay liên quan đến tiềm năng về trí tuệ con người, chuẩn đoán vân tay có thể đánh giá tình hình sức khỏe và tình cảm của con người, mối quan hệ mật thiết giữa vân tay và tiềm thức con người, ngón cái và ngón trỏ có thể cho biết năng lực tự ý thức và ý chí của mỗi người.
Sinh trắc học dấu vân tay là cách duy nhất để giải các mật mã của não bộ, bởi dấu vân tay vĩnh viễn sẽ không thay đổi cho dù có bị bỏng, đứt tay… đi chăng nữa thì theo thời gian nó cũng sẽ tự tái tạo lại y như cũ. Vì thế, chỉ cần phân tích một lần trong đời cho trẻ, cha mẹ có thể định hướng lâu dài cho trẻ.
Vịêc sử dụng Sinh trắc học dấu vân tay đã được các nước trên thế giới sử dụng rộng rãi. Ở Mỹ, các nhà khoa học sử dụng dấu vân tay để chuẩn đoán chứng bệnh Down và hỗ trợ đặc biệt trong ngành khoa học hình sự. Ở Trung Quốc, người ta sử dụng Sinh trắc học để đo chỉ số thông minh ở những tộc người thiểu số. Nga và Trung Quốc cũng đã ứng dụng Sinh trắc học dấu vân tay để tìm kiếm các ứng cử viên tài năng cho đội tuyển Thế vận hội Olympic ở một đứa trẻ mới 4 tuổi. Ở Đức, các bác sĩ đã sử dụng phương pháp này để chuẩn đoán các bệnh liên quan đến rối loạn tâm lý và di truyền.
Còn ở các nước ASEAN, Sinh trắc học dấu vân tay được xem như là một công cụ đắc lực hỗ trợ cho việc khám phá tài năng thiên bẩm, tính cách, điểm mạnh, điểm yếu, cách tiếp thu việc học, chỉ số IQ, EQ (trí tuệ cảm xúc), CQ (chỉ số sáng tạo), AQ (chỉ số vượt khó)… của từng cá nhân với mục đích cho việc định hướng giáo dục, phát triển cá nhân và sự nghiệp.

Thay đổi quan điểm, thay đổi tương lai của trẻ
Sinh trắc học dấu vân tay như một tấm bản đồ hướng dẫn con bạn con đường đi đến thành công. Chị Dung, Q.9 cho biết: trước khi phân tích sinh trắc học dấu vân tay để tìm ra tài năng thiên bẩm của bé Đạt Khôi con chị, chị nghĩ rằng nên để con mình phát triển tự nhiên. Tuy nhiên, chị cũng e ngại rằng: để con phát triển tự nhiên mà không có sự hướng dẫn định hướng, giáo dục của cha mẹ ngay từ khi còn nhỏ, con cái sẽ rất dễ dàng chịu sự tác động xấu từ các yếu tố môi trường bên ngoài, mà bé Đạt Khôi thì còn quá nhỏ để có thể nhận biết được hành vi của bản thân. Được bạn bè giới thiệu về Khoa học Sinh trắc học Dấu vân tay chị không ngần ngại làm bài phân tích khoa học cho con mình. Chị rất hài lòng về kết quả của bảng phân tích não bộ và các loại hình thông minh trí tuệ của trẻ, để từ đó mà định hướng đúng cho con. Chị cũng biết được đâu là điểm yếu của con mình để giúp trẻ khắc phục, đâu là điểm mạnh để phát huy và ngành nghề nào sẽ phù hợp với khả năng của trẻ. Hiện giờ, chị và con chị ngày càng thân thiết hơn, bởi chị đã biết được mong muốn, nguyện vọng của con mình, không áp đặt trẻ như trước nữa.

Cuộc sống của trẻ nằm trong tầm tay của các bậc cha mẹ. Hãy xóa bỏ những nghi ngờ về tài năng, tính cách của trẻ, cùng con trẻ xây dựng mot gia đình thật hạnh phúc!


Thứ Năm, 26 tháng 4, 2012

LỊCH SỬ VỀ SINH TRẮC VÂN TAY (DERMATOGLYPHICS)



  • Trung Quốc Cổ đại: Các thương nhân sử dụng dấu ấn của ngón tay cái trong việc giao dịch 
  •    Năm 1684: Tiến sĩ Nehemiah Grew (1641-1712) giới thiệu Finger Prints, Palms and Soles đến Hội Hoàng gia
  •  Năm 1685:Tiến sĩ Bidloo công bố tấm bản đồ giải phẫu, minh họa các chỉ số của con người có liên quan đến thái độ sống
  • Năm 1686: Tiến sĩ Marcello Malphigi (1628-1694) đưa ra luận thuyết về các loại vân tay: xoắn, móc, vòm trong dấu vân tay
  • Năm 1788: J.C.Mayer là người đầu tiên đưa ra thuyết cơ bản về phân tích vân tay và giả thuyết rằng Dấu vân tay là duy nhất
  • Năm 1823: Tiến sĩ Jan Purkinje phân loại những chủng trên các vân tay thành 9 loại: arch, tented arch, ulna loop, radial loop, peacock’s eye/compound, spiral whorl, elliptical whorl, circular whorl, and double loop/composite
  • Năm 1823: Joannes Evangelista Purkinji tìm thấy các mô hình và hình dạng của ngón tay bắt đầu hình thành ở khoảng tuần thứ 13 của thai nhi trong bụng mẹ.
  • Năm 1832: Tiến sĩ Charles Bell (1774-1842) là một trong những bác sĩ đầu tiên kết hợp khoa học nghiên cứu giải phẫu thần kinh với thực hành lâm sàng. Ông xuất bản cuốn The Hand: Its Mechanism and Vital Endowments as Evincing Design.
  • Năm1893 Francis Galtons (cháu của Charles Darwin) là người đầu tiên phát hiện vai trò Francis Galtons (cháu của Charles Darwin) là người đầu tiên phát hiện vai trò của vân tay trong lĩnh vực di truyền và sự khác biệt vân tay ở những chủng tộc khác nhau. Ông đã đơn giản hoá việc phân loại vân tay và chia vân tay thành 3 loại lớn: Vân sóng (không có tam giác điểm), vân móc (có 1 tam giác điểm), vân xoáy (có 2 tam giác điểm) (1892) Francis Galtons (cháu của Charles Darwin) là người đầu tiên phát hiện vai trò của vân tay trong lĩnh vực di truyền và sự khác biệt vân tay ở những chủng tộc khác nhau.
  • Năm 1897: Harris Hawthorne Wilder là người Mỹ đầu tiên học về Dermatoglyphics. Ông đã phát minh ra chỉ số Main Line, nghiên cứu thenar hypothenar eminencies, khu II, III, IV.
  • Năm 1926 Tiến sĩ Harold Cummins được xem là cha đẻ của ngành nghiên cứu khoa học dấu vân tay đưa ra lí luận chỉ số cường độ vân tay PI (Pattern Intensity).Giá trị RC, số lượng tam giác điểm, hình dạng vân tay, vị trí hình dạng vân tay ở những ngón tay khác nhau có liên quan đến tiềm năng và trí tuệ của con người.Ông nghiên cứu ra rằng dấu vân tay được hình thành đồng thời với sự hoàn thiện các cấu trúc của não bộ. Dấu vân tay được khởi tạo ở thai nhi vào giai đọan từ 13 đến 19 tuần tuổi. Vào giai đọan trước đó, thai nhi không có dấu vân tay đồng thời não bộ cũng chỉ trong giai đoạn hình thành. Khi thai nhi được 19 tuần tuổi cũng là lúc các vùng chính của não hình thành bao gồm cả vỏ đại não.
  • Năm 1944: Tiến sĩ Tâm lý phân tích Julius Spier Chirologist xuất bản cuốn sách "Bàn tay của trẻ em". Ông đã khám phá một số điểm đáng kể, đặc biệt là trong lĩnh vực phát triển tâm sinh lý, chẩn đoán sự mất cân bằng và các vấn đề trong khu vực này từ các mô hình của bàn tay
  • Năm 1957: Tiến sĩ Walker sử dụng các cấu hình da trong chẩn đoán Hội chứng Down
  • Năm 1968: Sarah Holt nghiên cứu mô hình các vân tay của cả hai bàn tay và lòng bàn tay ở các dân tộc khác nhau cả về đặc tính bẩm sinh và sự tác động của môi trường
  • Năm 1969: John J. Mulvihill, MD và David W. Smith, MD xuất bản cuốn “Thiên tài qua Vân tay”, cung cấp phiên bản mới nhất về sự hình thành của vân tay
  •  Năm 1970: Liên Xô sử dụng Sinh trắc vân tay trong việc lựa chọn thí sinh cho Thế vận hội Olympic
  • Năm 1976: Schaumann nghiên cứu các chỉ số trên vân tay của những người bệnh tim bẩm sinh, ung thư, bệnh bạch cầu, bệnh tâm thần phân liệt.... nghiên cứu được hướng vào nghiên cứu di truyền và chẩn đoán của các khuyết tật nhiễm sắc thể.
  •  Năm 1980: Trung Quốc thực hiện công trình nghiên cứu tiềm năng con người, trí thông minh và tài năng trong vân tay và gen của con người.
  • Năm 1985: Tiến sĩ Chen Yi Mou - Đại học Havard nghiên cứu Sinh trắc vân tay dựa trên Thuyết Đa Thông Minh của Tiến sĩ Howard Gardner. Đây là lần đầu tiên áp dụng Sinh trắc dấu vân tay trong lĩnh vực giáo dục và chức năng của não liên quan đến dấu vân tay
  • Năm 2000: Tiến sĩ Stowens - Giám đốc Bệnh viện St Luke ở New York tuyên bố để có thể chẩn đoán tâm thần phân liệt và bệnh bạch cầu với độ chính xác hơn 90%. Tại Đức, Tiến sĩ Alexander Rodewald tuyên bố có thể xác định khuyết tật bẩm sinh tương đương với độ chính xác 90%.
  • Năm 2004: Trung tâm IBMBS (Trung tâm Sinh trắc học Xã hội và Hành vi ứng xử quốc tế) đã xuất bản hơn 7000 luận án về Sinh trắc vân tay. Ngày nay, Mỹ, Nhật Bản, Trung Quốc, Đài Loan, Singapore, Malaysia... áp dụng Sinh trắc vân tay đến các lĩnh vực giáo dục, hy vọng sẽ cải thiện chất lượng giảng dạy và nâng cao hiệu quả học tập bằng cách xác định các phong cách học tập khác nhau.
  •   Các nhà nghiên cứu khẳng định độ chính xác của Sinh trắc vân tay rất cao, đó là khả năng dự báo từ các tính năng của tay.

Thứ Năm, 19 tháng 4, 2012

ĐỪNG TỰ HẠN CHẾ SỨC MẠNH BẢN THÂN

Bạn đã từng nghĩ rằng mình thực sự chẳng làm được gì cho cuộc sống này và mình quá kém cỏi.
Bạn đã từng so sánh mình với một ai đó, để rồi bật khóc.
Bạn đã từng sống một cuộc sống không phải con người thật của mình.
Bạn đã thấy mình thất bại và tự nhủ rằng: “Đến đây là chấm hết”.
Cái cảm giác mình là kẻ thua cuộc, kẻ vô ích luôn làm bạn cảm thấy khó chịu, mệt mỏi và rồi nước mắt làm bạn mất đi sự tự tin, làm bạn bị lún sâu trong tâm trạng đó mãi không thoát ra được. Bạn thấy tự ti trước cuộc sống, lập trường của bạn bị lung lay và rồi trước bao con đường, bao ngã rẽ bạn sẽ mãi không tìm được đường đi riêng cho mình.
Vậy đã bao giờ bạn tự hỏi mình rằng tại sao lại như vậy???  Có thật bạn là người vô dụng, hay đơn thuần bạn chưa thực sự biết hết khả năng của chính mình, điều này khiến bạn đang tạo ra rào cản phát sinh từ tâm lý hạn chế bản thân của mình.

Hạn chế sức mạnh bản thân
Tự  hạn chế bản thân là một biểu hiện tâm lý mặc cảm về thân phận, không dám thi thố, tranh luận. Do vậy mà người ta hay thu mình, tránh giao tiếp, cảm thấy bi quan và chán nản, có sự mặc cảm lớn trong quan điểm về bản thân, luôn cảm thấy mình kém cỏi trước người khác về những cái căn bản nhất. Họ không dám đưa ra ý kiến, quan điểm của riêng mình chỉ vì sợ sự đánh giá hay nhận xét của người khác; thậm chí đôi khi còn nảy sinh suy nghĩ tiêu cực muốn hạn chế cả khả năng của những người xung quanh. Kết quả cuối cùng của những việc đó là họ không thể thoát ra khỏi chính con người mình để bước tới thành công và mãi mãi chôn chân trong sự tù túng.
Nguyên nhân sâu xa dẫn đến tự hạn chế bản thân là thói quen sống:
Từ khi được sinh ra chúng ta đã mang trong mình nguồn sức mạnh vô cùng to lớn, nhưng chúng ta lại lãng quên, và không quan tâm đến việc đi tìm cái vốn đã hiện hữu trong bản thân mình.
Có thể chúng ta đã không được khuyến khích tạo lập và phát triển lòng tự trọng, tính độc lập và óc sáng tạo ngay từ thuở nhỏ, để đến khi lớn lên việc tự hạn chế bản thân đã trở thành một thói quen không thể sửa đổi. Thế là, từ sự khiếm khuyết này đã tiếp tục phát sinh ra những khiếm khuyết khác.
Ví dụ: Một bà mẹ có tuổi thơ không được khuyến khích phát huy những xúc cảm riêng thì sẽ cảm thấy lo lắng khi đứa con càng lúc càng phát triển tính tự lập của nó và dường như không còn cần đến sự bảo bọc của mẹ. Các bà mẹ thường lo sợ đứa trẻ sẽ không còn yêu thương, gần gũi và nương tựa vào mình nữa. Họ không những không vui khi con mình ngày một chững chạc hơn mà còn tìm cách ngăn trở khả năng sáng tạo và những hành động đầy cá tính của con. Chính điều này vô tình đã kìm hãm sự phát triển mang tính tự nhiên của sức mạnh bản thân trong những đứa trẻ. Và hiển nhiên khi lớn lên, chúng sẽ trở thành những con người thiếu tự tin vào năng lực bản thân; không dám đưa ra ý kiến, quan điểm của riêng mình chỉ vì sợ sự đánh giá hay nhận xét của người khác...

Biểu hiện phát sinh của Hạn chế sức mạnh bản thân
Nóng giận:  nhận thức bi quan về bản thân dễ làm người ta nóng giận, nóng giận dược xem như là một cơ chế bảo vệ. Người thiếu tự tin cố gắng làm cho mình có vẻ quan trọng và có quyền trước người khác. Họ làm như vậy vì họ cảm thấy mình không quan trọng và thua kém mọi người.
Trầm cảm:  trầm cảm là một biểu hiện thông thường, người thiếu tự tin thấy mình không giỏi, mà còn không được người thân, bạn bè yêu thương và hỗ trợ. Vấn đề ở đây là họ cảm thấy mình chẳng ra gì, không có giá trị hoặc chẳng là gì trước mặt người khác. Nếu trầm cảm kéo dài họ sẽ có nguy cơ phát sinh ra những căn bệnh cả về thể chất lẫn tinh thần.
Ghen tị:  là một biểu hiện khác của thiếu tự tin. Người thiếu tự tin thường cảm thấy sợ hãi trước mọi người và coi ai cũng là đối thủ của mình. Những người họ gặp chẳng khác nào cái “gai” trong mắt và sự hiện diện của những người này đe dọa và làm cho họ mất đi cơ hội biểu lộ tài năng.
Ăn cắp vặt:  thiếu tự tin còn có thể dẫn đến thói quen ăn cắp vặt hoặc làm những điều điên cuồng. Một người thiếu tự tin thừa nhận “  mỗi khi tôi lấy được cái gì đó đem về nhà, tôi cảm thấy thỏa mãn và an toàn biết bao”. Những người có thói quen này thường là những người có tham vọng, không bằng lòng với vị thế hiện tại của mình. Chính vì thế họ cố gắng dung mưu kế để lừa bịp người khác nhằm thu nhiều lợi lộc cho mình, vì họ tin rằng những gì mà họ thu được sẽ làm cho họ thỏa mãn và thấy tự tin hơn. 

 Đừng hạn chế năng lực của bản thân

 Hãy luôn sống cuộc sống của chính mình
"Chỉ khi biết mình là ai bạn mới thấy mình có giá trị!". Chúng ta có rất nhiều giả định sai khi không thật sự hiểu rõ về bản thân mình, bạn có dám khẳng định rằng mình hoàn toàn biết rõ những nhu cầu cũng như sở thích của bản thân, hay những điều bạn cho là ý muốn của mình đó thật ra là lại bắt nguồn từ suy nghĩ của những người thân như ông bà cha mẹ, anh chị,…có thể bạn đã sống quá lâu theo những giá trị của người khác nên nhìn mọi vật cũng bằng lăng kính của người khác mà không nhận ra lăng kính cá nhân của mình đang bị che lắp dần đi, chúng ta có thể kiểm tra vấn đề này qua những việc đơn giản như: hãy nghĩ xem bạn thích màu nào nhất : xanh, đỏ, tím hay vàng , có thể bạn luôn nói rằng bạn thích màu xanh dương nhất, nhưng đó có phải là câu trả lời chắc chắn không hay bạn chọn màu xanh dương chỉ đơn giản vì cha bạn cũng từng nói đó là màu mà ông yêu thích nhất; cách bạn bày trí căn phòng của mình cũng vậy bạn có xếp đặt quanh mình những đồ vật trang trí theo ý thích của mình? Hay đơn giản chỉ vì đó là ý thích của người yêu hay của cha mẹ bạn chẳng hạn. Hãy để chính mình lên tiếng, tự khám phá ra sở thích thật của mình, đừng cố bó buộc mình theo quan điểm của bất kỳ ai, bất kỳ diều gì, hãy tự khám phá ra sở thích thật sự của mình, và thậm chí khi đó bạn có thể phát hiện ra rằng sở thích của mình thay đổi tùy theo mỗi ngày, tùy theo tâm trạng.


Trong cuộc sống, mỗi người chúng ta có những quan điểm, suy nghĩ của riêng mình! Hãy nhận biết xem mình thích điều gì và không thích điều gì , hãy theo ý thích của bản thân và tôn trọng các quan điểm của mình, không cần phải đi theo cách đánh giá của người khác, miễn là nó giúp bạn cảm thấy thoải mái tự tin khi nhìn nhận tất cả mọi việc .

Hạn chế thói quen so sánh mình với những người khác
Có thể bạn thấy so với mọi người mình chỉ là một hạt cát giữa sa mạc, họ hơn và hơn bạn rất nhiều. Đó là một suy nghĩ lệch lạc của bạn đấy! Đừng so sánh bản thân mình với người khác, có rất nhiều điều không thể xảy ra trong thực tế cuộc sống khi bạn cứ mãi so sánh, hơn thua với những người xung quanh, hãy luôn tin rằng : “Tạo hóa ban tặng mỗi người một khả năng làm những điều mà người khác không thể” , tạo hóa ban tặng cho con người những đặc trưng riêng biệt về tính cách, ngoại hình, năng khiếu…Và con đường tìm kiếm hạnh phúc trong cuộc sống cũng chẳng ai giống ai. Vì vậy, điều bạn cần làm là cố gắng vươn lên, sống hết mình để chứng minh cho họ biết rằng : bạn không hề thua kém họ về tất cả. Và nhớ rằng, đừng bao giờ lấy họ làm thước đo, làm chuẩn mực để bạn vươn lên khẳng định mình có thể bằng họ. Rồi bạn sẽ cứ nhìn họ mà sống, bắt chước họ, chạy theo sau họ. Vậy thì cuộc sống này chẳng còn ý nghĩa gì!

Học cách chấp nhận và thích nghi với những thay đổi
Nếu gặp thất bại thì bạn nên coi đó là một bài học kinh nghiệm giúp bạn thành công. Bạn sẽ không bao giờ thành công nếu không gặp thất bại, và nên hiểu rằng: Không phải tất cả mọi việc đều có thể như ý muốn. Vì vậy, hãy tĩnh tâm để suy nghĩ về tính cách của bản thân và xác định những điều mình mong muốn để tập trung tất cả cho các mục tiêu đó. Nếu bạn thấy rằng mình cần phải thay đổi để thích nghi với cuộc sống thì hãy thực hiện ngay. Tuy nhiên, chắc chắn rằng những thay đổi này mang lại niềm hạnh phúc thực sự cho bản thân chứ không phải để gây ấn tượng với mọi người. Hãy bắt đầu bằng những điều nho nhỏ như giúp đỡ những người xung quanh, tạo thói quen suy nghĩ sâu sắc hay học những điều mới mẻ và các kỹ năng sống. Bạn có thể cải thiện kỹ năng đọc và viết của mình, tạo nhịp sống năng động với các bài tập thể dục, học cách quản lý thời gian hay thay đổi các thói quen.... để ngày càng hoàn thiện bản thân.

Ngừng suy nghĩ  tự  ti về bản thân
“ Chúng ta suy nghĩ và tin như thế nào thì chúng ta sẽ trở thành người như thế ấy”. Chính bạn chứ không phải một ai khác mang lại sự bình an cho bạn, chính bạn đang hạn chế khả năng của bản thân về việc suy nghĩ tiêu cực về những điều mình có thể và không thể làm được. Chúng ta sẽ trở thành những gì chúng ta nghĩ, do đó đừng để bản thân bị hạn chế vì những định kiến hay những suy nghĩ hạn hẹp của chính mình, hãy khát khao và nghĩ về những điều lớn lao, tốt đẹp hơn. 


 Cho dù ngoại hình, sức khỏe, vị thế hay khả năng…của bạn là gì đi chăng nữa, hãy luôn tự tin về bản thân mình. Mỗi người trong chúng ta đều đang sở hữu một tài năng tiềm ẩn, điểm mạnh, điểm yếu, tính cách riêng... hãy khám phá chúng và phát triển thành công hơn.  Vì vậy, chẳng có lý do gì để bạn tự ti về bản thân mình yếu kém hơn so người khác.